GS - TS Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khuyến học Việt Nam đã soạn thảo một văn bản có tính chất tóm tắt các sự kiện, các hoạt động lớn của Hội trong 15 năm xây dựng và phát triển với tựa đề :" Hội Khuyến học Việt Nam 15 năm tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục". Chúng tôi xin giới thiệu để các cấp Hội làm tài liệu tham khảo cho công tác thông tin tuyên truyền nhân kỷ niệm 15 năm thành lập Hội Khuyến học Việt Nam (02/10/1996 - 02/10/2011).
I. NHỮNG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI KHUYẾN HỌC VIỆT
Kể từ ngày thành lập đến nay, Hội Khuyến học Việt Nam đã phát triển không ngừng, trở thành một tổ chức xã hội có quy mô hoạt động rộng khắp cả nước. Sự phát triển và hoạt động có thể chia thành 4 giai đoạn:
GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT (10/1996 – 6/1999)
Đây là giai đoạn Hội thành lập các tổ chức để giúp Ban Chấp hành Trung ương thực hiện 3 mục tiêu cơ bản do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I đề ra:
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam, không phân biệt tuổi tác, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, thành phần xã hội; đơn vị công tác… có quyền lợi bình đẳng và công bằng trong học tập để không ngừng nâng cao kiến thức, học vấn, tay nghề;
- Hỗ trợ cho nhà giáo và các cơ sở đào tạo sư phạm những điều kiện cần thiết để ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, không ngừng trau dồi kiến thức chuyên môn và đạo đức nhà giáo.
- Tư vấn cho các cấp uỷ Đảng và chính quyền cùng các cơ quan chức năng của nhà nước về việc phát triển giáo dục.
Trong giai đoạn này có mấy sự kiện lớn là:
Ngày
- Ngay sau Đại hội lần thứ I, Trung ương Hội đã lập Văn phòng Trung ương Hội và một số Ban chức năng để nhanh chóng tiến hành những hoạt động đối nội, đối ngoại, xây dựng mối quan hệ với các tổ chức chính phủ và chính phủ trong nước, tạo mối liên hệ với một số tổ chức quốc tế đang hoạt động ở Việt Nam;
- Tiếp nhận từ Ban Bí thư Trung ương Đảng số tiền 1 tỷ đồng để làm nguồn vốn ban đầu cho Quỹ Khuyến học sau sau này (Ngày 27/7/1997, lần đầu tiên Hội đã tổ chức việc tặng thưởng đầu tiên cho 50 nhà giáo thương binh và trợ giúp hàng trăm học sinh vùng bị thiên tai thuộc các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long).
Tháng 10/1998, tại
Trong quá trình triển khai 3 mục tiêu của công tác vận động khuyến học, toàn Hội đã quán triệt tư tưởng giáo dục trong Nghị quyết 07-NQ/HNTW Đảng (khoá VII) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục “huy động toàn dân làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước” và Nghị quyết 02-NQ/HNTW Đảng (khoá VIII) về phát triển giáo dục thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội đã tiến hành công tác vận động nhân dân tham gia học tập và phát triển giáo dục theo tinh thần xã hội hoá.
Khi thành lập Hội, tổ chức của Hội mới chỉ có mặt ở 21 tỉnh, thành. Số hội viên chưa quá 10.000. Đến cuối giai đoạn thứ nhất, tổ chức của Hội đã có mặt ở 28 tỉnh, thành với khoảng 500.000 hội viên.
GIAI ĐOẠN THỨ HAI (7/1999 – 12/2005)
Ngày
- Mở rộng hệ thống tổ chức của Hội trên các địa bàn trong cả nước, chú trọng phát triển các tổ chức Hội ở cơ sở.
- Phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc thông qua phong trào thi đua xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ khuyến học và Quỹ khuyến học ở các cấp Hội.
- Đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân học tập, toàn dân tham gia giáo dục, bước đầu tham gia xây dựng xã hội học tập từ cơ sở.
Trong giai đoạn này có những sự kiện khuyến học lớn sau đây:
- Ngày 10/8/1999, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Khuyến học Việt
- Ngày 9/9/1999, Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Quỹ Khuyến học Việt
- Ngày 25/10/2000, Đại hội thi đua toàn quốc vì sự nghiệp khuyến học đã được tổ chức tại Hà Nội. Đại hội là một mốc son đánh dấu phong trào thi đua khuyến học phát triển rộng khắp trong cả nước.
- Ngày 19-20/01/2001, tại Hội nghị lần thứ 3 (khoá II) thông qua Đề án “Hội Khuyến học Việt
- Tháng 11/2003, Chính phủ đã giao cho Bộ Giáo dục – Đào tạo cùng với Hội chuẩn bị Đề án “xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập”. Điều này đã khẳng định hướng đi của Đề án Hội tham gia xây dựng xã hội học tập từ cơ sở là đúng đắn.
- Tháng 6/2004, Hội đã phối hợp với Bộ Giáo dục – Đào tạo tổ chức Hội nghị sơ kết 5 năm xây dựng và phát triển Trung tâm học tập cộng đồng.
- Ngày 10-11/12/2004, Đại hội biểu dương gia đình hiếu học lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội. Hàng chục vạn gia đình trong cả nước đã được nhận danh hiệu “Gia đình hiếu học”, Đại hội là một biểu tượng tốt đẹp về truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam.
- Ngày
Trong giai đoạn này, Hội đã có sự phát triển vượt bậc. Nếu như kết thúc giai đoạn thứ nhất (1999), tổ chức của Hội chỉ có mặt ở 28 tỉnh, thành với khoảng nửa triệu hội viên thì kết thúc giai đoạn thứ hai, Hội đã có mặt tại 100% các tỉnh, thành, 99,22% các quận, huyện, 94,0% các xã, phường với trên dưới 3.500.000 hội viên. Ở giai đoạn đầu, chúng ta mới thử nghiệm 15 trung tâm học tập cộng đồng thì ở cuối giai đoạn thứ hai, số trung tâm đã lên tới con số 6130. Phong trào thi đua khuyến học, khuyến tài đã bắt rễ vào cơ sở, tạo nên một không khí thi đua sôi động, lôi cuốn nhiều triệu người tham gia.
GIAI ĐOẠN THỨ BA (12/2005 – 9/2010)
Ngày
“HỘI KHUYẾN HỌC VIỆT
Khuyến học khuyến tài,
Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập”
Bộ Chính trị khẳng định rằng “khuyến học khuyến tài là đạo lý của dân tộc ta, còn xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó Hội Khuyến học Việt Nam đóng vai trò nòng cốt của phong trào khuyến học trong cả nước, có nhiệm vụ chính trị là xây dựng xã hội học tập từ cơ sở xã, phường, thôn bản, thực hiện tốt di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: là cho ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1).
Đại hội đã đề ra 6 nhiệm vụ lớn trong toàn khoá:
- Mở rộng mặt trận khuyến học trên cơ sở phát triển sâu rộng các tổ chức Hội và các phong trào khuyến học đến tận cơ sở.
- Phát triển chiều sâu các phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập từ cơ sở.
- Tăng cường chức năng tham mưu, tư vấn, phản biện, giám sát của các cấp Hội đối với các chủ trương, chính sách, đề án phát triển giáo dục.
- Phát triển các hình thức quỹ khuyến học, khuyến tài để hỗ trợ cho việc mở rộng phong trào khuyến học
- Xây dựng mạng lưới thông tin, tuyên truyền rộng khắp theo hướng hiện đại hoá và đại chúng hoá.
- Đào tạo bồi dưỡng cán bộ Hội các cấp để nâng cao trình độ nhận thức và năng lực hoạt động khuyến học khuyến tài, đáp ứng yêu cầu thực hiện vai trò nòng cốt của Hội trong cuộc vận động xây dựng xã hội học tập từ cơ sở.
Trong giai đoạn thứ ba này có những sự kiện quan trọng nâng cao nhanh sức mạnh của Hội, đó là:
+ Tổ chức của Hội đã được xây dựng trên 100% tỉnh, thành phố; 100% quận, huyện và thị xã; gần 100% xã, phường, thị trấn.
+ Chỉ thị 11-CT/TW là cơ sở chính trị vô cùng quan trọng của việc định hướng phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
+ Nhà nước đã quyết định lấy ngày 2/10 hằng năm làm Ngày Khuyến học Việt
+ Đại hội thi đua khuyến học toàn quốc lần thứ II đã động viên đông đảo các lực lượng xã hội tham gia phong trào khuyến học.
+ Đại hội gia đình hiếu học, dòng họ khuyến học lần thứ II đã phát huy mạnh mẽ truyền thống hiếu học của nhân dân.
+ Cuộc thi “Nhân tài Đất Việt” đã đánh dấu 5 năm phát triển thi đua trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ, suy tôn những tài năng Việt.
+ Đề án “Hội Khuyến học Việt
+ Đề tài cấp Nhà nước “xây dựng mô hình xã hội học tập ở Việt
+ Báo Dân trí điện tử đạt mức người truy cập 10.000.000 người/ngày.
+ Quỹ Khuyến học trong toàn quốc đã xuất trên 10.000 tỷ đồng cho hơn 10.000.000 học bổng và phần thưởng cho học sinh, sinh viên, giáo viên.
Trong giai đoạn thứ ba này, toàn Hội đã có trên 7.500.000 hội viên, sinh hoạt trong gần hơn 200.000 các chi hội khuyến học. Hơn 10.000 Trung tâm học tập cộng đồng được tổ chức, thu hút mỗi năm khoảng trên dưới 10.000.000 lượt người tới học tập. Trên 3.500.000 gia đình và 40.000 dòng họ đạt danh hiệu hiếu học. Quỹ Khuyến học trong toàn quốc mấy năm gần đây, mỗi năm huy động được trên 700 tỷ đồng hàng năm có tới trên 3.000.000 học sinh, sinh viên được nhận học bổng hoặc tiền thưởng từ các loại hình quỹ khuyến học.
GIAI ĐOẠN THỨ TƯ (9/2010 đến nay)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Hội được tổ chức tại Hà Nội vào ngày
Về tổ chức, Hội sẽ phát triển mạnh các tổ chức hội ở cơ sở, cụ thể là sẽ tăng nhanh các chi hội ở xã, phường, thôn bản, trường học, các cơ sở sản xuất, các dòng họ, xứ đạo, nhà chùa, các cơ quan hành chính và sự nghiệp. Trong giai đoạn 2010 – 2015, Hội chú trọng khuyến khích phát triển tài năng trẻ đang học tập hoặc đang công tác.
Một sự kiện hết sức quan trọng là ngày
Ngay sau Đại hội IV, số hội viên đã tăng lên nhanh, hiện đã xấp xỉ 10% dân số. Đây là một mức phát triển đã được Đại hội III và IV rất quan tâm.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ PHONG TRÀO KHUYẾN HỌC TRONG CẢ NƯỚC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI SAU 15 NĂM HOẠT ĐỘNG
1. Đề cao đạo lý khuyến học, khuyến tài, phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc là một chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước về chấn hưng và đổi mới sự nghiệp giáo dục, xây dựng nước ta thành một xã hội học tập. Thông qua cuộc vận động toàn dân học tập, toàn dân tham gia phát triển giáo dục để thực hiện quan điểm xã hội hoá giáo dục là một phương pháp tập hợp toàn dân thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “làm cho ai cũng được học hành”, “làm cho dân tộc Việt
2. Việc thành lập Hội Khuyến học Việt
3. 15 năm là một thời gian ngắn trong sự phát triển của một tổ chức xã hội. Tuy nhiên, với độ tuổi còn rất trẻ, Hội đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp, xây dựng được nền móng ban đầu cho xã hội học tập ở cấp cơ sở xã, phường, thị trấn và ở các thôn bản, tổ dân phố…
Hội đã kế tục phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XX, một phong trào mang tính cách mạng xã hội thông qua việc phát triển giáo dục để “khai dân trí, chấn hưng khí, hậu dân sinh”, đã tiếp bước phong trào Truyền bá Quốc ngữ với khẩu hiệu “Chữ Quốc ngữ cho mọi người” và đã phát triển chủ trương “giáo dục cho mọi người” lên một tầm cao mới “Giáo dục suốt đời cho mọi người”.
Xây dựng thành công xã hội học tập từ cơ sở trên cơ sở tổng kết và xác định những mô hình khuyến học, khuyến tài cũng như những mô hình học tập chính quy và không chính quy phù hợp với những đặc điểm và điều kiện đa dạng ở các địa bàn dân cư cấp cơ sở không chỉ là một đóng góp quan trọng cho việc chuyển mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở trên một diện rộng, mà còn đặt nền móng cho việc phát triển hệ thống giáo dục không chính quy cho người lớn đa dạng, rộng khắp và phát triển bền vững.
4. Khuyến học, khuyến tài đã trở thành một phong trào nhân dân rộng khắp trong toàn quốc, lôi cuốn các ngành, các giới, các lực lượng xã hội vào những hoạt động. Mặt trận khuyến học đã hình thành, hoạt động dưới sự lãnh đạo sát sao và chặt chẽ của cấp uỷ và chính quyền các cấp.
Trong mặt trận này, các tổ chức phi chính phủ (bao gồm cả Hội), đã xây dựng được mối liên hệ với 2 lực lượng quan trọng: các cơ quan chính phủ có chức năng chỉ đạo và điều hành giáo dục cùng các doanh nghiệp thành đạt, có khả năng tài trợ cho các hoạt động khuyến học, khuyến tài, tạo nên sức mạnh duy trì hoạt động của mặt trận khuyến học được bền vững. Hội Khuyến học đang từng bước chứng minh vai trò nòng cốt của mình trong phong trào này.
5. Trong suốt 15 năm qua, Hội đã kiên định quan điểm giáo dục xã hội chủ nghĩa của Đảng, quán triệt tư tưởng giáo dục nhân cách và học tập suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh để triển khai mọi hoạt động khuyến học, khuyến tài định hướng xã hội học tập.
Toàn Hội là một khối đoàn kết thống nhất, là thành viên tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt
Hội Khuyến học Việt